Hiện nhu cầu thị trường cho sản phẩm ngành công nghiệp đúc là rất lớn. Tuy nhiên, để mở rộng các thị trường này. Sản phẩm ngành đúc phải tăng chất lượng, doanh nghiệp phải tăng năng lực.
Ông Phạm Anh Tuấn, Phó Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nặng – Bộ Công Thương cho biết. Để đến năm 2021 sản phẩm đúc có thể cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trong khu vực. Ngay bây giờ cần phải tiến hành giải quyết dần những hạn chế của ngành đúc.
Từ nhiều chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với ngành công nghiệp, lĩnh vực công nghệ đúc Việt Nam thời gian qua đã đạt được các bước phát triển rất khả quan. Sản phẩm đúc đã xuất khẩu được sang các nước Đông Nam Á và một số quốc gia khác. Đa phần xuất khẩu theo hai dạng là các sản phẩm đúc đơn lẻ (đạt 1,424 triệu USD năm 2010).
Sản phẩm trong các thiết bị, máy móc xuất khẩu như trong động cơ diesel (đạt 35-40 triệu USD năm 2010). Trong nhiều loại công cụ khác như máy bơm các loại, máy gặt đập… Chúng ta còn có thể xuất khẩu các chi tiết bằng gang, thép chịu mài mòn, chịu nhiệt cho ngành công nghiệp xi măng. Các băng xích cho ngành công nghiệp luyện kim…
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, sản phẩm đúc sản xuất trong nước chỉ mới thỏa mãn được một phần nhu cầu thiết yếu thị trường nội địa. Chủ yếu là gang xám, thép đúc cho ngành chế tạo cơ khí. Các loại gang, thép hợp kim chịu ăn mòn, mài mòn cho các ngành khai thác, xây dựng. Còn đa số phải nhập ngoại dưới dạng phụ tùng lắp ráp đồng bộ.
Vì thế thời gian qua, Việt Nam nhập siêu rất nhiều các sản phẩm cơ khí và thị trường sản phẩm đúc trong nước bị nước ngoài thao túng. Thị phần của doanh nghiệp trong nước dần nhỏ lại.
Theo ông Phạm Anh Tuấn, khâu tạo phôi, một khâu rất quan trọng trong công nghiệp cơ khí. Các cơ sở sản xuất vẫn sử dụng chủ yếu công nghệ đúc bằng khuôn cát. Chất lượng thành phẩm đúc thấp, tỷ lệ phế phẩm cao (có nơi đến 30%), lượng dư gia công nhiều. Trong nước chưa có phương pháp đúc kim loại chính xác cao.
Công nghệ tạo phôi bằng phương pháp biến dạng kim loại ở trạng thái nóng còn kém. Chưa đáp ứng yêu cầu thị trường. Khâu nhiệt luyện, xử lý chất lượng bề mặt các sản phẩm chưa hoàn chỉnh. Ảnh hưởng đến chất lượng của các chi tiết sản phẩm đúc. Khâu gia công kim loại bằng cắt gọt vẫn sử dụng các loại máy công cụ lạc hậu. Phương pháp công nghệ cổ điển, trình độ tự động hóa thấp.
Cũng theo ông Tuấn, toàn ngành đúc còn thiếu các nhà máy có trình độ công nghệ hiện đại làm trung tâm cho việc chuyên môn hóa, hợp tác hóa. Một yêu cầu quan trọng của sản xuất cơ khí và công nghiệp hỗ trợ.
Trong khi đó, theo các chuyên gia, thị trường tiêu thụ của sản phẩm ngành đúc là rất lớn. Nhu cầu sản phẩm đúc cho các ngành công nghiệp trong nước từ năm 2010-2020, tập trung vào ngành cơ khí chế tạo với nhu cầu vật đúc khoảng 689 ngàn tấn vào năm 2020. Phục vụ cho cơ khí nông lâm ngư nghiệp, chế biến thực phẩm, máy công cụ, các loại máy xây dựng…
Ngành giao thông vận tải với nhu cầu 817 ngàn tấn vật đúc vào năm 2020 cho sản xuất – lắp ráp ô tô, xe máy, xe lửa… Các ngành công nghiệp khác như điện, luyện kim, khai thác mỏ, xi măng, tàu biển, cấp nước… cũng cần rất nhiều sản phẩm chi tiết đúc.
Dự đoán, nhu cầu các sản phẩm đúc trong nước sẽ khoảng 1.927.000 tấn năm 2020 và 2.500.000 tấn năm 2025. Trước mắt, trong 5-10 năm tới, các chi tiết bằng gang, chi tiết đúc chính xác bằng hợp kim nhôm có độ phức tạp cao, có tính năng đặc biệt phục vụ ngành giao thông vận tải, ngành cơ khí rất có triển vọng.
Sản phẩm ngành đúc cũng có thị trường xuất khẩu không nhỏ. Tổng giám đốc Tổng công ty Công nghiệp Sài Gòn, ông Nguyễn Hữu Thọ cho biết. Chỉ tính riêng thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc. Hàng năm có thể nhập hàng trăm ngàn tấn sản phẩm ngành đúc nếu đạt chất lượng. Thị trường Bắc Mỹ và Mỹ cũng đang là một trong những thị trường lớn tiêu thụ sản phẩm ngành đúc kim loại.
Để phát triển ngành công nghiệp đúc, ông Phạm Bá Kiêm, Viện KH-CN mỏ – luyện kim cho rằng “việc quan trọng cần thực hiện là phải xây dựng hệ thống các doanh nghiệp đúc”. Phục vụ cho cả ngành công nghiệp hoặc cho một khu vực rộng. Theo hướng chuyên môn hóa cao để tập trung thiết bị, công nghệ, nhân lực, tài lực. Đồng thời xây dựng các doanh nghiệp đúc nhỏ làm vệ tinh hỗ trợ cho các doanh nghiệp đúc lớn. Trong đó, tập trung đầu tư một cách đồng bộ các thiết bị, công nghệ đúc. Để đảm bảo chất lượng sản phẩm, có giá thành rẻ, bảo vệ môi trường.
Bên cạnh đó, cũng nên xây dựng hệ thống viện nghiên cứu để nắm bắt các thông tin kinh tế, kỹ thuật, nghiên cứu. Áp dụng các công nghệ tiên tiến. Nhằm chế tạo ra các sản phẩm đúc chất lượng cao và hiệu quả kinh tế lớn. Có như thế, đến năm 2015 sản phẩm đúc Việt Nam mới có thể cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trong khu vực.
Theo thống kê năm 2010, cả nước có khoảng 390 doanh nghiệp, cơ sở đúc có sản phẩm liên quan đến ngành đúc, ở 43 tỉnh thành. Với sản lượng hơn 92 ngàn tấn gang đúc, gần 6 ngàn tấn đồng, hơn 1,2 triệu tấn thép đúc… Các doanh nghiệp, cơ sở ngành đúc tập trung nhiều ở Hà Nội, TP.HCM, Thái Nguyên, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Đồng Nai, Bình Dương. Trong đó nổi bật nhất doanh nghiệp Nhật Bản ABE industrial Vietnam CO. Ltd (AIV) tại khu công nghiệp VSIP II. Chuyên gia công sản xuất gia công sản phẩm công nghiệp nặng như dập, đúc, rèn…
—————————————————————————-
Văn phòng Trụ sở: 175/51 PHÓ CƠ ĐIỀU, PHƯỜNG 06, QUẬN 11, TP.HCM.
Địa chỉ Kho: 94/15 Đường Bình Chuẩn 31, KP. Bình Phước A, P. Bình Chuẩn, TP. Thuận An, Tỉnh Bình Dương.
Tel: (+84) 0913.772.019 – 0906.841.474
Website: https://thietbiphongdat.com – Email: [email protected]